Followers
Showing posts with label Kinh Doanh. Show all posts
Showing posts with label Kinh Doanh. Show all posts
Bi Quyet Thanh Cong Cua Cac Ti Phu (p1)
Đầu năm 2005, tạp chí Forbes đã công bố Danh sách những tỷ phú của thế giới. Danh sách này của Forbes hàng năm đều tăng lên, năm sau cao hơn năm trước. Lần này, theo Forbes, số lượng các nhà tỷ phú sẽ tăng lên mức kỷ lục là 691 người với tổng tài sản là 2,2 nghìn tỷ USD. Để có mặt trong Danh sách này của Forbes thì các nhà tỷ phú phải có trong tay ít nhất 1 tỷ USD.
Đây là lần thứ 11 liên tiếp chủ tịch tập đoàn Microsoft, Bill Gates giữ vị trí người giàu nhất thế giới. Mặc dù tài sản có sụt giảm đôi chút từ 46,6 tỷ USD xuống còn 46,5 tỷ USD những vị trí số một của Bill Gates sẽ vẫn chưa bị đe doạ trong vài năm nữa. Tỷ phú Lakshmi Mitta của ấn Độ và Ivan Kramprad, chủ tịch tập đoàn IKEA, Thuỵ Điển có mặt trong số mười người đứng đầu danh sách. Trong khi ông vua thép Mittal đứng thứ ba thì Kampard lên hàng thứ sáu. Carlos Slim, nhà tỷ phú trong lĩnh vực viễn thông của Mêhicô là tỷ phú có sự gia tăng tài sản nhanh nhất từ 18,8 tỷ USD lên đến 25 tỷ USD.
Trong Danh sách các nhà tỷ phú của Forbes, Mỹ là quốc gia có nhiều tỷ phú mới gia nhập danh sách nhất với 69 gương mặt mới, tiếp theo là Nga với 9 người, Anh có 8 người và Đức có 7 người mới. Riêng tại Nga, tỷ phú Roman Abramovich có sự thăng tiến nhanh nhất và trở thành người giàu nhất nước Nga với tổng tài sản lên đến 13,3 tỷ USD và đứng thứ 21 trong danh sách của Forbes. Tác giả cuốn sách Harry Porter, nữ nhà văn JK Rowling, với số tài sản trên 1 tỷ USD cũng tham gia danh sách của Forbes.
Khi danh sách trên được công bố là một lần nữa để các chuyên gia có cơ hội phân tích và tìm ra những bí quyết đưa những tỷ phú đến thành công ngày hôm nay. Các câu hỏi đặt ra là: Tại sao họ thành công nhanh chóng đến như vậy? Bên trong họ là những tính cách gì? Một nhóm các chuyên gia của tạp chí Nihon Keizai đã tổng hợp, phân tích, đánh giá tính cách và phương pháp làm việc của các tỷ phú trên toàn thế giới để đưa ra 10 công thức thành công của họ:
1/ Nuôi dưỡng ý chí kinh doanh
Ý chí kinh doanh được nuôi dưỡng và phát triển khi các nhà tỷ phú tiếp thu được các kiến thức quản trị kinh doanh và các kỹ năng chuyên môn cần thiết trong quá trình làm việc hồi còn trẻ. Một biểu hiện qua phân tích kết quả khảo sát là những tỷ phú luôn có ý chí kinh doanh đáng khâm phục và họ quyết tâm để thực hiện cho được những mục tiêu mà mình đã đề ra.
Kinh doanh đồng nghĩa với rủi ro. Nếu ý chí kinh doanh được hiểu theo nghĩa là ý định khởi sự và mở rộng các hoạt động kinh doanh thì những ý đinh này được các tỷ phú xác định dựa trên phán đoán về lợi nhuận thu được với một mức độ mạo hiểm kèm theo trong quá trình kinh doanh. Độ rủi ro càng lớn thì các nhà doanh nghiệp bình thường càng e ngại đầu tư nhưng đối với các tỷ phú thành công thì họ không hề e ngại. Sự tồn tại của các rủi ro trong kinh doanh không hề làm suy giảm ý chí kinh doanh của nhiều nhà doanh nghiệp.
2/ Luôn suy nghĩ và động não
Ivan Lamprad, chủ tịch tập đoàn IKEA đã nói: “Nếu không có ý tưởng, đôi khi hoạt động kinh doanh trở nên đơn điệu. Một ý tưởng kinh doanh táo bạo, dám nghĩ dám làm, đồng nghĩa với thành công trong kinh doanh”.
Các nhà tỷ phú đều không phải là những nhà khoa học có những phát minh vĩ đại nhưng họ đều có những khả năng nhạy bén và ra những quuyết định lớn trong kinh doanh, đem lại những khoản lợi nhuận khổng lồ có giá trị tương đương với các phát minh lớn của các nhà khoa học. Sở dĩ Bill Gates trở thành người giàu nhất thế giới trong một thời gian dài đến như vậy là nhờ Bill Gates đã biết phát huy sáng tạo về hệ thống điều hành của máy tính Dos. Trên thực tế, hệ thống điều hành này không phải là của Bill Gates mà là của một người anh em kết nghĩa. Ông này đã chết vì tai nạn xe hơi sau khi đã uống rượu say.
Với sự hỗ trợ thích hợp của các đối tác kinh doanh cộng với đầu óc sáng tạo, linh hoạt của các tỷ phú, có thể nói phần lớn các sản phẩm của họ đều hứa hẹn một tiềm năng lớn tại thị tr¬ường mới.
3/ Một cách nhìn hoàn toàn mới mẻ, mạnh bạo
Khác với các bậc đàn anh đi trước, các tỷ phú ngày nay không chấp nhận "trói mình" trong một ngành nào đó. Ngày nay, ít có các tỷ phú chỉ bám mãi một ngành, họ không ngại thay đổi và biết tạo ra những thành tựu kỳ diệu, gây được ấn tượng mạnh ngay trong các ngành nghề truyền thống. Nhà doanh nhân trẻ Denis Lerrien rời bỏ công ty con của Amagon để lãnh đạo Sanford Enrope. Anh đã gánh lấy trách nhiệm đứng đầu 3000 cán bộ công nhân và đối mặt với nhữngvấn đề mới về chiến lược trong kinh doanh các loại bút máy Waterman hoặc Parker.
Carlos Slim, tỷ phú viễn thông của đất nước trung Mỹ Mêhicô cũng có cách thức xâm nhập thị trường Mỹ một cách rất sáng tạo khi lập phòng viễn thông tại đây: Ông chỉ góp vốn bằng cách đư¬a nhân sự của mình sang công ty Mỹ mới thành lập mang tên Maxel Tech. Vốn của Maxel góp là tiền lư¬ơng năm đầu tiên trả cho các nhân sự đó. Sau một năm, hãng mới phải trả l¬ương cho các nhân sự. Với vốn góp bằng 1 năm tiền lương của mình, các nhân viên của Carlos và chính bản thân ông vẫn được bảo toàn trong số vốn đầu t¬ư và sẽ được chia lời khi làm ăn có hiệu quả.
4/ Mạo hiểm để thành công
Warren Buffet đã từng nói: “Nếu bạn không dám mạo hiểm trên thương trường thì tốt nhất là bạn nên loại bỏ khỏi ý muốn của mình về những khoản lợi nhuận khổng lồ”. Quả thật, một trong những tính cách mà bạn có thể tìm gặp ở bất kể nhà tỷ phú nào đó là dám chấp nhận mạo hiểm.
Những năm đầu thập niên 80, Micheal Dell, chủ tịch Dell Computer lúc đó còn là sinh viên đã phát minh ra mạch từ tính của các máy điều khiển tự động. Sau đó, Dell đem bán phát minh cho một công ty cơ khí của Mỹ. Nhận thấy rằng kỹ thuật máy tính đang ngày một phát triển và sẽ rất hưng thịnh trong nay mai, Dell không hề do dự sử dụng số tiền bán phát minh của mình mở công ty máy tính Dell Computer. Dưới sự trợ giúp của nhiều người cùng với sự phân tích đánh giá đúng đắn về các nguồn thông tin, Dell đã quyết định một cách khác người, mạo hiểm mở các công ty phát triển máy tính cỡ lớn bỏ qua các công ty máy tính nhỏ, đồng thời chuyển sang kinh doanh các thiết bị máy tính văn phòng và đã đạt được thành công bất ngờ. Sau đó hàng năm mức doanh thu bình quân của Dell Computer tăng từ 40-50% và Micheal Dell trở thành một trong những tỷ phú trẻ nhất nước Mỹ.
Đến những năm 90, nhận ra tiềm lực to lớn của thị trường máy tính PC, Micheal Dell đã kiên quyết lao vào lĩnh vực mới, chấp nhận mạo hiểm mặc dù chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Chỉ vài năm sau, máy tính của Dell Computer đã có mặt hầu hết các nước trên thế giới với doanh thu hàng năm hơn chục tỷ USD. Dell Computer trở thành một trong những hãng máy tính lớn nhất thế giới và Micheal Dell cũng được xếp vào một trong 10 người giàu nhất thế giới. Chính cá tính mạo hiểm đã giải thích tại sao các đối thủ cạnh tranh cho đến nay vẫn không bắt chước được Micheal Dell. Theo nhà phân tích chiến lược công nghệ Steven Milunuovic của Merrill Lynch thì việc dám đương đầu với mạo hiểm của Dell có thể vì như siêu sao bóng rổ Micheal Jordan: tất cả mọi người đều biết, đều hiểu nhưng không ai có thể bắt chước được anh.
5/ Sức bền và tính kiên nhẫn
Trong số 500 người giàu nhất thế giới năm 2004, có gần 30 người đã từng bỏ học giữa chừng mặc dù bạn bè và gia đình can ngăn để theo đuổi sở thích làm giàu của mình. Một trường hợp đặc biệt khác là Sam Walton, chủ tịch tập đoàn bán lẻ lớn nhất nước Mỹ Wal- Mart, nổi tiếng với vai trò “Ông vua bán lẻ” nước Mỹ. Ông là người bỏ học rất sớm để đi kiếm tiền. Khi đã thành công, Sam Walton lại gặp rất nhiều chỉ trích vì sự bánh trướng quá lớn của mình, thậm chí có nhiều người còn cố “moi móc” các tật xấu của Walton đề nhằm bôi nhọ ông. Tuy nhiên, Walton vẫn rất kiên nhẫn, không hề có phản ứng nào thái quá. Đối với ông, thành công của Wal- Mart luôn là những phần thưởng đáng giá nhất đề bù đắp và xoá tan mọi sự chỉ trích.
Doanh Nhan Va Nhung Thach Thuc Thuong Truong
Những năm đầu của thế kỷ mới là quãng thời gian đầy thành công nhưng cũng rất nhiều thất bại với giới kinh doanh, lợi nhuận của các “đại gia” viễn thông tăng mạnh trong khi giá dầu lên cao khiến các hãng hãng không thế giới “nghèo đi” đáng kể. Câu hỏi đặt ra là ai sẽ là người gặp nhiều khó khăn và thách thức nhất từ nay đến cuối năm và trong cả năm 2006. Tạp chí Tokyotimes đã công bố danh sách các gương mặt doanh nhân này.
1. Ed Breen – Tyco
Trong những năm cuối thập kỷ 90, tập đoàn Tyco còn là một trong những biểu tượng của nền kinh tế Mỹ với lợi nhuận hàng tỷ USD. Nhưng sự việc đã thay đổi trong chốc lát khi mà các vụ bê bối về tài chính của Tyco bị phanh phui. Sự xuống dốc của Tyco dường như không có điểm dừng, thua lỗ ngày một tăng, giá cổ phiếu sụt thê thảm, cùng với đó vị cựu chủ tịch Kozlowski cùng hàng loạt các giám đốc khác của Tyco phải đối mặt với pháp luật với nhiều tội danh khác nhau.
Giờ đây, bước sang năm mới, các cổ đông của Tyco vẫn tiếp tục đặt hết niềm tin của họ vào Ed Breen, giám đốc điều hành mới của Tyco, với mong muốn rằng dưới thời đại của Ed Breen, Tyco sẽ không còn “xa hoa nhưng rỗng túi” như trước mà trở thành một Tyco thực sự vững mạnh về tài chính trong kinh doanh. Nhưng cùng với niềm tin lớn mạnh đó thì những thách thức và khó khăn đối với Ed Breen tại Tyco cũng sẽ không nhỏ chút nào.
Một trong những nhiệm vụ cấp bách của Breen trong thời gian tới là chuyển cho được Tyco ra khỏi danh sách những công ty đồi bại nhất nước Mỹ. Trong vòng 01 năm tới, Ed Breen có thể không mong gì hơn là Tyco được người ta nghĩ về như một công ty không phải với những vụ xì căng đan hay thuộc những tít báo nổi bật ngày mà là về một công ty với sản phẩm công nghiệp đa dạng và bình thường như những cuộn băng, chuông báo trộm, van phun nước, bình chống cháy, dây cáp và những ống tiêm plastic.
2. Mukesh Ambani - Reliance Industries
Ambani là chủ tịch tập đoàn công nghiệp khổng lồ, Reliance Industries của Ấn Độ. Với sự lớn mạnh của mình, Reliance có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế Ấn Độ. Hiện Reliance chiếm đến 3,5% GDP của Ấn Độ với trên 3 triệu cổ đông đang ngày một giàu có hơn nữa.
Dưới sự lãnh đạo của Mukesh, Reliance đã trở thành tập đoàn duy nhất của Ấn Độ lọt vào Fortune 500 – Danh sách những công ty lớn nhất thế giới với doanh thu trên 24 tỷ USD. Cùng với đó, thủ tướng mới đắc cử của ấn Độ Manmohan Singh đã mời ông tham gia vào Uỷ ban cố vấn kinh tế của chính phủ.
Giới chuyên môn đánh giá trong năm tài chính 2006, Mukesh sẽ phải tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức rất lớn để củng cố vị trí của mình khi mà cuộc tranh chấp quyền lực giữa ông và người em Anil vẫn chưa đến hồi kết. Hẳn nhiều người còn nhớ, trong năm 2004 thị trường chứng khoán Ân Độ đã chịu ảnh hưởng thế nào bởi cuộc tranh chấp quyền lực tại Reliance Industries giữa hai anh em nhà Ambani.
Với tính cách cũng như tài năng của mình, Mukesh được sự ủng hộ rất lớn của người dân Ấn Độ. Được biết đến như là một người trầm tĩnh, tự tin, cẩn trọng trong kinh doanh và đặc biệt là tư tưởng mở cửa ra thế giới trong một đất nước còn nhiều sự bảo thủ, Mukesh luôn sẵn sàng đối mặt với bất kỳ thách thức nào để đạt được mục tiêu của mình là góp phần đưa Ấn Độ trở thành một nước công nghiệp hàng đầu thế giới vào năm 2020 và đuổi kịp Trung Quốc trong việc xuất khẩu hàng hoá lớn nhất thế giới.
3. Mike Zafirovski – Motorola
Câu nói “Hello Moto” quen thuộc ngày nào của hãng điện thoại di động Motorola đang dần trở nên xa lạ với người sử dụng điện thoại di động. Không còn những sản phẩm sành điệu hay những tiện ích công nghệ mới, giờ đây Motorola phải đứng nhìn thị phần của mình rơi vào tay các đại gia khác như Nokia, Samsung.
Dường như “họa vô đơn chí” đối với Motorola. Trong khi khó khăn đang ngày một chồng chất thì tổng quản trị (COO) Edward Breen đã rời Motorola theo tiếng gọi “danh vọng” từ chiếc ghế CEO của tập đoàn Tyco. Việc ra đi của Ed Breen làm cả Motorola hoang mang. Dưới sự chỉ đạo của COO Ed Breen và CEO Christipher Galvin, Motorola đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi khỏi cơn bĩ cực 2001, thời điểm mà hãng lỗ đến 5,8 tỷ USD.Và ngay khi Breen ra đi, Galvin và ban quản trị nhanh chóng nghĩ đến Mike Zafirovski, người đến Motorola từ General Electric. Vừa hồi sinh cho bộ phận điện thoại di động yếu kém, trọng trách hiện tại của COO Mike Zafirovski trong năm 2005 là làm sao hoàn thành kế hoạch đưa Motorola về với sức mạnh vốn có.
Giới chuyên môn cho rằng, trong năm tài chính 2005, mục tiêu đặt ra là Zafirovski sẽ phải triển khai nhiều kế hoạch khác nhau nhằm giảm được số nợ khổng lồ hàng tỷ USD của Motorola. Để làm được điều này, Zafirovski sẽ phải nỗ lực rất lớn như tiếp tục cải tổ các hoạt động kinh doanh, cơ cấu tài chính và mở rộng sang những thị trường mới.
4. Gerard Kleisterlee – Phillips
Không như những đại gia điện tử khác của thế giới như Sony, Samsung, Toshiba,..., những năm đầu của thiên niên kỷ mới là quãng thời gian “bất hạnh” đối với người khổng lồ Hà Lan này. Doanh thu liên tục giảm sút, thua lỗ ngày một tăng cao, các nhà đầu tư tư trở nên chán nản. Sự bi quan tràn ngập trong Phillips. Niềm hy vọng giúp Phillips vượt qua khó khăn vẫn chỉ trông chờ vào CEO Gerard Kleisterlee.
Trong tình hình như hiện nay, để thành công trong quá trình cải tổ với mục địch giúp “người khổng lồ già nua và ốm yếu” Phillips trở lại với những thành công trong thập niên 90, Kleisterlee sẽ phải đối mặt với những thách thức như định hướng lại trong vấn đề quản trị, tìm ra thị trường mới, đẩy mạnh việc xúc tiến marketing sao cho hiệu quả,... Điều quan trọng là Kleisterlee cần biết kiếm lợi nhuận không những chỉ trong thị trường điện thoại di động mà còn trong các thị trường khác như dụng cụ bán dẫn, chip và công nghệ hiển thị màn hình.
5. James Cantalupo – McDonald
Giờ đây, câu chuyện huyền thoại về McDonald không còn được mọi người nhắc đến như một biểu tượng của nền kinh tế Mỹ. Hệ thống franchising (nhượng quyền kinh doanh) hùng mạnh toàn cầu của Mc Donald đang đứng trước nhiều khó khăn và thách thức lớn.
Không còn sự hỗ trợ từ nhiều đối tác quen thuộc, hoạt động kinh doanh của Mc Donald tụt dốc một cách thê thảm. Nhiều khách hàng đã chuyển sang hambuger của các đối thủ cạnh tranh với giá thành rẻ hơn và chủng loại đa dạng hơn. Doanh thu của hãng ở Đức và Anh đã giảm mạnh do người dân châu Âu ngày càng kỹ luỡng hơn trong việc mua thực phẩm nhất là những thực phẩm nhập khẩu từ bên ngoài. Nhưng tình hình tồi tệ nhất lại xảy ra ở ngay tại Mỹ, nơi McDonald có 13.200 cửa hàng. Cuộc cạnh tranh với các đối thủ Burger King và Wendy khíến McDonald phải chao đảo. Các hãng khác đưa ra mức giá thấp và hấp dẫn hơn nhiều - điều mà McDonald thường né tránh. Ngoài ra, việc phục vụ khách hàng cũng rất quan trọng. McDonald thường xuyên bị xếp cuối bảng trong các cuộc thăm dò ý kiến khách hàng. Người tiêu dùng cho rằng, nhân viên của McDonald vừa chậm vừa thô lỗ, điều này được nhấn mạnh như là nguyên nhân chủ yếu khiến nhiều người không vào quán McDonald.
Và giờ đây, năm 2005 sẽ là một năm đầy khó khăn khi kế hoạch cải tổ và tìm kiếm lợi nhuận được đặt lên vai vị giám đốc điều hành James R Cantalupo. Nhiệm vụ đặt ra đối với Cantalupo là hết sức nặng nề khi phải đối mặt với những khó khăn kể trên! Sức ép thành công cũng vô cùng lớn!
6. Joseph Kim - VGX Pharmaceuticals
Doanh nhân kiêm nhà nghiên cứu nổi tiếng người Mỹ gốc Hàn Quốc này sẽ chờ đợi trong năm 2005 những thách thức đến với loại thuốc điều trị AIDS của ông trên con đường được cơ quan chức năng và người tiêu dùng thế giới chấp nhận.
Năm nay mới 35 tuổi, Kim làm việc tại hãng dược VGX Pharmaceuticals. Sau thời gian miệt mài nghiên cứu, loại thuốc chữa trị AIDS của VGX Pharmaceuticals, VGX-410, đang chờ Cục thực phẩm và dược phẩm Mỹ cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn. Theo Kim thì loại thuốc của ông có tác dụng hữu hiệu trong công tác điều trị AIDS khi có khả năng ngăn chặn và tiêu diệt sự sinh sôi của virus HIV trong cơ thể. Không chỉ thế, theo Kim, phương pháp ngăn chặn virus sẽ còn được ông tiếp tục nghiên cứu để ứng dụng cho các loại thuốc trị những dịch bệnh nan y khác như viêm gan siêu vi C và cúm do virus Tây sông Nile.
Điều đáng quý là Kim sẵn sàng công bố rộng rãi công thức chế biến thuốc VGX-410 để các quốc gia nghèo có thể sản xuất mà không cần mua bản quyền sáng chế. Tuy nhiên, theo đánh giá của giới chuyên môn, để loại thuốc của Kim được ứng dụng rộng rãi sẽ còn rất nhiều khó khăn đòi hỏi Kim phải vượt qua như chứng minh loại thuốc không có tác dụng phụ, dễ sản xuất và sử dụng.
7. Chen Tianqiao - Shanda Interactive Entertainment
Là một trong nhữung tỷ phú trẻ tuổi nhất ở Trung Quốc, mục tiêu của Chen Tianqiao trong năm 2005 là đưa công ty Shanda Interactive Entertainment của anh trở thành một trong nhưng công ty trò chơi trên mạng lớn nhất thế giới.
Nhưng để đạt được mục tiêu trên là không dễ dàng chút nào. Chen sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh lớn của nhiều hãng trò chơi như Sega, EA Sports cũng đang chú trọng phát triển mạnh mẽ thị trường trò chơi trên mạng của mình. Và yêu tố an toàn và chống tin tặc cũng là một trong những thách thức mà Chen pahỉ vượt qua nếu muốn đạt được mục tiêu của mình.
Năm 2004 là một năm thành công với Chen khi giá cổ phiếu của công ty Shanda tăng gấp đôi trên thị trường chứng khoán Nasdaq, Mỹ. Chen cho biết: "Trong 3 đến 6 năm tới, Mỹ sẽ là một trong những thị trường trò chơi trên mạng lớn nhất thế giới và tôi hi vọng chiếm lĩnh thị trường này". Người Trung Quốc tin vào tham vọng lớn của chàng trai 31 tuổi nàỵ. Và cha mẹ của Chen cũng sẽ không buồn chút nào khi thấy con trai mình từ bỏ vị trí một viên chức nhà nước để tiến thẳng vào lĩnh vực kinh doanh đầy khó khăn.
Warren Buffett - Con Duong dan den su giau co
Warren Edward Bufett, nhà đầu tư giá trị huyền thoại, đã biến một xưởng dệt đang ốm yếu trở thành một cỗ máy tài chính đầy sức mạnh mà sau này trở thành công ty cổ phần thành công nhất thế giới. Được mệnh danh là “nhà tiên tri của Omaha” bởi sự tinh thông trong đầu tư của ông, Bufett đã tích lũy được một lượng của cải cá nhân hơn 62 tỷ đôla, đưa ông trở thành một trong những người dẫn đầu danh sách tỷ phú năm 2008 do tạp chí Forbe bình chọn. Ông đã tạo động lực cho rất nhiều tín đồ trung thành hàng năm đến Omaha để có cơ hội nghe ông nói chuyện tại cuộc họp thường niên ở Beckshire, một sự kiện được gán cho danh hiệu một cách hài hước là "lễ hội âm nhạc của chủ nghĩa tư bản - "Woodstock of Capitalism".
Thời trai trẻ
Buffett ra đời vào ngày 30 tháng 8 năm 1930 tại Omaha, Nebraska, là người con thứ hai trong ba chị em và là con trai một của Howard và Leila Buffett,. Cha ông là người môi giới chứng khoán và đã từng là đại biểu quốc hội Mỹ cả bốn nhiệm kỳ. Howard tham gia các nhiệm kỳ không liên tục vào danh sách ứng cử viên của đảng Cộng Hòa, nhưng ông lại theo quan điểm tự do chủ nghĩa.
Kiếm tiền là một sở thích có từ rất sớm của Buffett, ông bán nước giải khát và có một chặng đường suôn sẻ. Mới 14 tuổi ông đã đầu tư những thứ kiếm được từ những nỗ lực này vào 40 mẫu đất, sau đó cho thuê lấy lãi. Bị cha thúc giục, ông nộp đơn xin vào học tại đại học Pennsylvania và đã được chấp nhận. Không thấy ấn tượng, Buffett đã rời trường đại học Pennsylvania sau hai năm và chuyển sang đại học Nebraska. Sau khi tốt nghiệp, cha ông một lần nữa thuyết phục về giá trị của việc học, và động viên ông theo đuổi học vị. Harvard đã từ chối Buffett nhưng Colombia thì nhận ông. Buffett học tập dưới sự hướng dẫn của Benjamin Graham, cha đẻ của thuyết đầu tư giá trị, và thời gian ở Colombia đã mang lại cho ông một giai đoạn sự nghiệp huyền thoại mặc dầu nó được khởi sự muộn. (Hãy đọc đầu tư giá trị trong cuốn “3 Nguyên tắc đầu tư bất tận nhất và Phương thức đầu tư của Warrent Buffet là gì?” - “The 3 Most Timeless Investment Principles and What Is Warren Buffett’s Investing Style?”.)
Sau khi tốt nghiệp, Graham đã từ chối thuê Buffett, thậm chí gợi ý ông không nên làm việc ở phố Wall. Cha của Buffett đồng ý với Graham, và thế là Buffett trở lại Omaha làm việc tại công ty chứng khoán của cha mình. Ông đã cưới Susan Thompson và họ bắt đầu cuộc sống gia đình. Một thời gian ngắn sau đó Graham thay đổi quan điểm và đề nghị Buffet đến làm việc ở New York.
Nền tảng của giá trị
Khi ở New York, Buffett có cơ hội xây dựng dựa trên những lý thuyết về đầu tư mà ông đã học được từ Graham ở Colombia. Đầu tư giá trị, theo Graham nghĩa là liên quan đến việc tìm kiếm cổ phần được bán hạ giá khác thường dưới mức giá trị tài sản, và ông gọi đó là “giá trị nội tại”. Buffett đã tiếp thu tinh hoa nhưng đã có sự quan tâm đến việc phát huy nó lên một bước xa hơn nữa. Không giống Graham, ông còn muốn xem xét cả bên ngoài những con số và tập trung vào đội ngũ quản lý của công ty cũng như lợi thế cạnh tranh của sản phẩm công ty trên thị trường. (Để biết thêm về “Giá trị nội tại – intrinsic value” xem “ Phân tích cơ bản: Đó là gì? - Fundamental Analysis: What is it?”).
Năm 1956, ông trở lại Omaha, mở công ty Buffett Associates và đã mua một căn nhà. Năm 1962, ở tuổi 30, ông đã là một triệu phú khi ông đã hợp lực với Charlie Munger. Sự cộng tác của họ cuối cùng đã có kết quả trong sự phát triển một triết lý đầu tư dựa vào quan điểm của Buffett về tìm kiếm ở đầu tư giá trị như một cái gì đó còn hơn là cố gắng moi móc vài đồng đôla cuối cùng của những thương vụ đang hấp hối.
Với triết lý đó, họ đã mua Berkshire Hathaway, một xưởng dệt đang sắp đóng cửa. Bắt đầu bằng việc vận dụng thuyết giá trị cổ điển của Braham để sau đó khi việc kinh doanh hé mở những tín hiệu hồi sinh thì nó trở thành những khoản đầu tư chiến lược dài hạn. Nguồn vốn sinh ra từ việc kinh doanh dệt may được sử dụng để thực hiện những khoản đầu tư khác. Cuối cùng chính cổ phần từ thương vụ ban đầu lại bị những khoản cổ phần khác làm cho lu mờ. Năm 1985, Buffett ngừng kinh doanh dệt may nhưng ông vẫn tiếp tục giữ tên công ty đó. Triết lý đầu tư của Buffett dựa trên nguyên tắc chỉ mua cổ phẩn của những công ty mà ông tin chắc rằng chúng được quản lý tốt và đang bị đánh giá thấp hơn giá trị của nó. Khi mua chứng khoán, ông có xu hướng nắm giữ chúng dường như vô thời hạn. Tất cả những công ty như Coca Cola, American Express và Gillette đều đáp ứng những tiêu chí của ông và được giữ lại trong danh mục đầu tư của Berkshire Hathaway trong nhiều năm. Trong nhiều trường hợp ông mua lại toàn bộ công ty nhưng vẫn để ban lãnh đạo công ty tiếp tục điều hành công việc kinh doanh hàng ngày. Một vài hãng nổi tiếng thuộc thể loại này trong đó có See’ Candies, Fruit of the Loom, Dairy Queen, The Pampered Chef và GEICO Auto Insurance.
Bí quyết của Buffett vẫn còn giữ nguyên vẹn đến khi cổ phiếu trong lĩnh vực công nghệ trở nên phổ biến. Thuộc tuýp người kiên định không thích công nghệ mới, Buffett đứng ngoài cuộc chơi những cổ phiếu ngành công nghệ suốt cuối thập niên 90. Giữ vững lập trường và khước từ đầu tư vào những công ty không đảm bảo niềm tin để ông ủy thác, Buffett đã nhận được sự coi thường của những chuyên gia phố Wall và bị nhiều người tẩy chay như một người đã hết thời. Dầu hiệu suy nhược trong lĩnh vực công nghệ xuất hiện khi hàng loạt vụ nổ bong bóng trong lĩnh vực kinh doanh mạng đã làm trắng tay nhiều chuyên gia đó. Còn lợi nhuận của Buffett khì tăng gấp đôi. (Để xem những sự kiện này hãy đọc The Greatest Market Craches, Sorting Out Cult Stock and Beavioral Finance: Herd Behavior).
Cuộc sống riêng
Mặc dù có tài sản tính bằng tiền tỷ nhưng Warren Buffett nổi tiếng thanh đạm. Ông vẫn sống trong căn hộ 5 phòng được mua năm 1958 với giá 31,000 đô la., uống Coca Cola và ăn tối ở những nhà hàng trong vùng nơi có những chiếc Hăm-bơ-gơ hay món thịt quay ông ưa thích. Trong thời gian dài ông né tránh ý tưởng mua phi cơ riêng. Cuối cùng thì ông cũng có một chiếc và ông đặt tên nó là “Indefensible – Không thể cưỡng nổi” – thể hiện sự tự phê bình một cách công khai về việc bỏ tiền ra mua chiếc phi cơ đó. (Hãy đọc cuốn Downshift To Simplify Your Life and Save Money The Scottish Way nếu bạn muốn tìm hiểu xem tiết kiệm thế nào để bạn có thể tiết kiệm được những khoản tiền lớn.)
Ông chung sống với Susan Thomson hơn 50 năm kể từ đám cưới năm 1952. Họ có ba người con Susie, Howard và Peter. Buffett và Susan ly thân năm 1977 nhưng vẫn duy trì hôn nhân đến khi bà qua đời năm 2004. Trước khi qua đời, Susan đã làm mối cho ông với Astrid Menks, một người hầu bàn. Buffett và Menks bắt đầu chung sống từ năm 1978 và sau đó chính thức cưới nhau vào tháng 8 năm 2006.
Tài sản thừa kế
Bạn sẽ sử dụng đồng tiền thế nào nếu bạn là nhà đầu tư thành công nhất thế giới? Nếu là Warren Buffett bạn sẽ đem cho đi. Buffett làm sửng sốt cả thế giới khi vào tháng 6 năm 2006 ông thông báo phần lớn tài sản của ông được góp vào quỹ từ thiện Bill & Melida Gates, nơi tập trung vào các vấn đề về sức khỏe nhân loại, hệ thống thư viện nước Mỹ và các trường học trên toàn thế giới. Nó là một quỹ từ thiện trong sáng nhất thế giới. (Hãy tìm hiểu người quyên góp thánh thiện nhất ở phố Wall trong cuốn The Saints Of Wall Street.)
Những khoản từ thiện sẽ được góp bằng cổ phiếu loại B của Berkshire Hathaway. Tổng giá trị quyên góp vào quỹ Gates là 10 triệu cổ phiếu. Nó được trích từ 5% tiền lãi chỉ đến khi Buffett chết hoặc khi quỹ không còn tuân theo những qui định sử dụng tiền hay những qui định mà Bill và Melinda Gates duy trì một cách tích cực cho những hoạt động của quỹ. Khoản từ thiện mà Buffett góp năm 2006 là 500,000 cổ phiếu với trị giá gần tới 1.5 tỷ đô la.
Tính theo giá trị cổ phiếu tháng 6 năm 2008, toàn bộ khoản từ thiện đã được góp vào quỹ Gates có giá trị vào khoảng 37 tỷ đô la. Buffett đánh giá giá trị cổ phần đó sẽ tiếp tục tăng thêm qua thời gian. Một khoản từ thiện bằng cổ phần khác sẽ được chia đều cho ba quỹ do những người con của Buffett điều hành. Thêm một khoản một triệu cổ phiếu sẽ chuyển đến một quỹ được thành lập để tỏ lòng kính trọng người vợ quá cố của ông.
Trong khi quỹ từ thiện Gates đã hẳn là một bất ngờ lớn, thì những nỗ lực từ thiện của Buffett chẳng có gì mới. Ông vẫn đang cống hiến tiền của trong suốt bốn năm qua cho quỹ Buffett, sau này được đổi tên là Susan Thomson Buffett. Quỹ này hỗ trợ quyền tự lựa chọn của người phụ nữ có kế hoạch hành động nhằm giảm bớt việc gia tăng sinh đẻ trong gia đình.
Buffett luôn vạch kế hoạch để dành phần lớn tài sản của mình làm từ thiện sau khi chết. Tinh hoa giá trị trong tâm hồn Buffett là: lý trí, quyết đoán, độc lập chính trị và nó vẫn đang chiếu sáng suốt đường đời của ông. Câu nói nổi tiếng của ông chính là: “Tôi biết những gì tôi làm, và điều đó tạo nên ý nghĩa để tiếp tục.”
Kết luận
Tương lai chứng kiến Buffett vẫn tiếp tục không ngừng quyên góp tiền làm từ thiện. Nói về vấn đề này, ông cho biết: “Tôi không phải là người say mê được giầu có như vua, đặc biệt khi mà sự lựa chọn là sáu tỷ người trên thế giới đang phải làm vật lộn với những công việc nghèo khó hơn nhiều trong cuộc sống còn chúng ta lại đang có cơ hội kiếm lợi từ đồng tiền.” (Theo thống kê của BBC ngày 26 tháng 6 năm 2006 thì Buffett đã quyên góp được 37 tỷ đô la làm từ thiện.)
Thời trai trẻ
Buffett ra đời vào ngày 30 tháng 8 năm 1930 tại Omaha, Nebraska, là người con thứ hai trong ba chị em và là con trai một của Howard và Leila Buffett,. Cha ông là người môi giới chứng khoán và đã từng là đại biểu quốc hội Mỹ cả bốn nhiệm kỳ. Howard tham gia các nhiệm kỳ không liên tục vào danh sách ứng cử viên của đảng Cộng Hòa, nhưng ông lại theo quan điểm tự do chủ nghĩa.
Kiếm tiền là một sở thích có từ rất sớm của Buffett, ông bán nước giải khát và có một chặng đường suôn sẻ. Mới 14 tuổi ông đã đầu tư những thứ kiếm được từ những nỗ lực này vào 40 mẫu đất, sau đó cho thuê lấy lãi. Bị cha thúc giục, ông nộp đơn xin vào học tại đại học Pennsylvania và đã được chấp nhận. Không thấy ấn tượng, Buffett đã rời trường đại học Pennsylvania sau hai năm và chuyển sang đại học Nebraska. Sau khi tốt nghiệp, cha ông một lần nữa thuyết phục về giá trị của việc học, và động viên ông theo đuổi học vị. Harvard đã từ chối Buffett nhưng Colombia thì nhận ông. Buffett học tập dưới sự hướng dẫn của Benjamin Graham, cha đẻ của thuyết đầu tư giá trị, và thời gian ở Colombia đã mang lại cho ông một giai đoạn sự nghiệp huyền thoại mặc dầu nó được khởi sự muộn. (Hãy đọc đầu tư giá trị trong cuốn “3 Nguyên tắc đầu tư bất tận nhất và Phương thức đầu tư của Warrent Buffet là gì?” - “The 3 Most Timeless Investment Principles and What Is Warren Buffett’s Investing Style?”.)
Sau khi tốt nghiệp, Graham đã từ chối thuê Buffett, thậm chí gợi ý ông không nên làm việc ở phố Wall. Cha của Buffett đồng ý với Graham, và thế là Buffett trở lại Omaha làm việc tại công ty chứng khoán của cha mình. Ông đã cưới Susan Thompson và họ bắt đầu cuộc sống gia đình. Một thời gian ngắn sau đó Graham thay đổi quan điểm và đề nghị Buffet đến làm việc ở New York.
Nền tảng của giá trị
Khi ở New York, Buffett có cơ hội xây dựng dựa trên những lý thuyết về đầu tư mà ông đã học được từ Graham ở Colombia. Đầu tư giá trị, theo Graham nghĩa là liên quan đến việc tìm kiếm cổ phần được bán hạ giá khác thường dưới mức giá trị tài sản, và ông gọi đó là “giá trị nội tại”. Buffett đã tiếp thu tinh hoa nhưng đã có sự quan tâm đến việc phát huy nó lên một bước xa hơn nữa. Không giống Graham, ông còn muốn xem xét cả bên ngoài những con số và tập trung vào đội ngũ quản lý của công ty cũng như lợi thế cạnh tranh của sản phẩm công ty trên thị trường. (Để biết thêm về “Giá trị nội tại – intrinsic value” xem “ Phân tích cơ bản: Đó là gì? - Fundamental Analysis: What is it?”).
Năm 1956, ông trở lại Omaha, mở công ty Buffett Associates và đã mua một căn nhà. Năm 1962, ở tuổi 30, ông đã là một triệu phú khi ông đã hợp lực với Charlie Munger. Sự cộng tác của họ cuối cùng đã có kết quả trong sự phát triển một triết lý đầu tư dựa vào quan điểm của Buffett về tìm kiếm ở đầu tư giá trị như một cái gì đó còn hơn là cố gắng moi móc vài đồng đôla cuối cùng của những thương vụ đang hấp hối.
Với triết lý đó, họ đã mua Berkshire Hathaway, một xưởng dệt đang sắp đóng cửa. Bắt đầu bằng việc vận dụng thuyết giá trị cổ điển của Braham để sau đó khi việc kinh doanh hé mở những tín hiệu hồi sinh thì nó trở thành những khoản đầu tư chiến lược dài hạn. Nguồn vốn sinh ra từ việc kinh doanh dệt may được sử dụng để thực hiện những khoản đầu tư khác. Cuối cùng chính cổ phần từ thương vụ ban đầu lại bị những khoản cổ phần khác làm cho lu mờ. Năm 1985, Buffett ngừng kinh doanh dệt may nhưng ông vẫn tiếp tục giữ tên công ty đó. Triết lý đầu tư của Buffett dựa trên nguyên tắc chỉ mua cổ phẩn của những công ty mà ông tin chắc rằng chúng được quản lý tốt và đang bị đánh giá thấp hơn giá trị của nó. Khi mua chứng khoán, ông có xu hướng nắm giữ chúng dường như vô thời hạn. Tất cả những công ty như Coca Cola, American Express và Gillette đều đáp ứng những tiêu chí của ông và được giữ lại trong danh mục đầu tư của Berkshire Hathaway trong nhiều năm. Trong nhiều trường hợp ông mua lại toàn bộ công ty nhưng vẫn để ban lãnh đạo công ty tiếp tục điều hành công việc kinh doanh hàng ngày. Một vài hãng nổi tiếng thuộc thể loại này trong đó có See’ Candies, Fruit of the Loom, Dairy Queen, The Pampered Chef và GEICO Auto Insurance.
Bí quyết của Buffett vẫn còn giữ nguyên vẹn đến khi cổ phiếu trong lĩnh vực công nghệ trở nên phổ biến. Thuộc tuýp người kiên định không thích công nghệ mới, Buffett đứng ngoài cuộc chơi những cổ phiếu ngành công nghệ suốt cuối thập niên 90. Giữ vững lập trường và khước từ đầu tư vào những công ty không đảm bảo niềm tin để ông ủy thác, Buffett đã nhận được sự coi thường của những chuyên gia phố Wall và bị nhiều người tẩy chay như một người đã hết thời. Dầu hiệu suy nhược trong lĩnh vực công nghệ xuất hiện khi hàng loạt vụ nổ bong bóng trong lĩnh vực kinh doanh mạng đã làm trắng tay nhiều chuyên gia đó. Còn lợi nhuận của Buffett khì tăng gấp đôi. (Để xem những sự kiện này hãy đọc The Greatest Market Craches, Sorting Out Cult Stock and Beavioral Finance: Herd Behavior).
Cuộc sống riêng
Mặc dù có tài sản tính bằng tiền tỷ nhưng Warren Buffett nổi tiếng thanh đạm. Ông vẫn sống trong căn hộ 5 phòng được mua năm 1958 với giá 31,000 đô la., uống Coca Cola và ăn tối ở những nhà hàng trong vùng nơi có những chiếc Hăm-bơ-gơ hay món thịt quay ông ưa thích. Trong thời gian dài ông né tránh ý tưởng mua phi cơ riêng. Cuối cùng thì ông cũng có một chiếc và ông đặt tên nó là “Indefensible – Không thể cưỡng nổi” – thể hiện sự tự phê bình một cách công khai về việc bỏ tiền ra mua chiếc phi cơ đó. (Hãy đọc cuốn Downshift To Simplify Your Life and Save Money The Scottish Way nếu bạn muốn tìm hiểu xem tiết kiệm thế nào để bạn có thể tiết kiệm được những khoản tiền lớn.)
Ông chung sống với Susan Thomson hơn 50 năm kể từ đám cưới năm 1952. Họ có ba người con Susie, Howard và Peter. Buffett và Susan ly thân năm 1977 nhưng vẫn duy trì hôn nhân đến khi bà qua đời năm 2004. Trước khi qua đời, Susan đã làm mối cho ông với Astrid Menks, một người hầu bàn. Buffett và Menks bắt đầu chung sống từ năm 1978 và sau đó chính thức cưới nhau vào tháng 8 năm 2006.
Tài sản thừa kế
Bạn sẽ sử dụng đồng tiền thế nào nếu bạn là nhà đầu tư thành công nhất thế giới? Nếu là Warren Buffett bạn sẽ đem cho đi. Buffett làm sửng sốt cả thế giới khi vào tháng 6 năm 2006 ông thông báo phần lớn tài sản của ông được góp vào quỹ từ thiện Bill & Melida Gates, nơi tập trung vào các vấn đề về sức khỏe nhân loại, hệ thống thư viện nước Mỹ và các trường học trên toàn thế giới. Nó là một quỹ từ thiện trong sáng nhất thế giới. (Hãy tìm hiểu người quyên góp thánh thiện nhất ở phố Wall trong cuốn The Saints Of Wall Street.)
Những khoản từ thiện sẽ được góp bằng cổ phiếu loại B của Berkshire Hathaway. Tổng giá trị quyên góp vào quỹ Gates là 10 triệu cổ phiếu. Nó được trích từ 5% tiền lãi chỉ đến khi Buffett chết hoặc khi quỹ không còn tuân theo những qui định sử dụng tiền hay những qui định mà Bill và Melinda Gates duy trì một cách tích cực cho những hoạt động của quỹ. Khoản từ thiện mà Buffett góp năm 2006 là 500,000 cổ phiếu với trị giá gần tới 1.5 tỷ đô la.
Tính theo giá trị cổ phiếu tháng 6 năm 2008, toàn bộ khoản từ thiện đã được góp vào quỹ Gates có giá trị vào khoảng 37 tỷ đô la. Buffett đánh giá giá trị cổ phần đó sẽ tiếp tục tăng thêm qua thời gian. Một khoản từ thiện bằng cổ phần khác sẽ được chia đều cho ba quỹ do những người con của Buffett điều hành. Thêm một khoản một triệu cổ phiếu sẽ chuyển đến một quỹ được thành lập để tỏ lòng kính trọng người vợ quá cố của ông.
Trong khi quỹ từ thiện Gates đã hẳn là một bất ngờ lớn, thì những nỗ lực từ thiện của Buffett chẳng có gì mới. Ông vẫn đang cống hiến tiền của trong suốt bốn năm qua cho quỹ Buffett, sau này được đổi tên là Susan Thomson Buffett. Quỹ này hỗ trợ quyền tự lựa chọn của người phụ nữ có kế hoạch hành động nhằm giảm bớt việc gia tăng sinh đẻ trong gia đình.
Buffett luôn vạch kế hoạch để dành phần lớn tài sản của mình làm từ thiện sau khi chết. Tinh hoa giá trị trong tâm hồn Buffett là: lý trí, quyết đoán, độc lập chính trị và nó vẫn đang chiếu sáng suốt đường đời của ông. Câu nói nổi tiếng của ông chính là: “Tôi biết những gì tôi làm, và điều đó tạo nên ý nghĩa để tiếp tục.”
Kết luận
Tương lai chứng kiến Buffett vẫn tiếp tục không ngừng quyên góp tiền làm từ thiện. Nói về vấn đề này, ông cho biết: “Tôi không phải là người say mê được giầu có như vua, đặc biệt khi mà sự lựa chọn là sáu tỷ người trên thế giới đang phải làm vật lộn với những công việc nghèo khó hơn nhiều trong cuộc sống còn chúng ta lại đang có cơ hội kiếm lợi từ đồng tiền.” (Theo thống kê của BBC ngày 26 tháng 6 năm 2006 thì Buffett đã quyên góp được 37 tỷ đô la làm từ thiện.)
Subscribe to:
Posts (Atom)